11. Truong THPT Thuan Thanh so 1

THẢO LUẬN
BÀI LÀM

Like và share nếu bạn thấy có ích


Hướng dẫn

Đây là phương pháp học thi trắc nghiệm nhanh và hiểu quả
Để biết được đáp án đúng sai = cách kick vào các đáp án

- Đáp án đúng là khi chọn đáp án mà hiện màu vàng là đáp án đúng

- Đáp án sai không hiện màu gì.
- Chúc các bạn làm bài tốt

Bắt Đầu Làm Bài

↓ Xem bài làm chi tiết ™
ĐÁP ÁN
l.c 2.C 3.C 4.A 5.A 6.A 7.A 8.A
9.C 10.A ll.c 12.D 13.D 14.c 15.D 16.B
17.c 18.A 19.c 20.D 21.c 22.A 23.c 24.B
25.A 26.A 27.B 28.D 29.A 30.B 31.D 32.c
33.A 34.B 35.A 36.A 37.B 38.D 39.B 40.c

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT Câu 1:
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ trở thành nước giàu nhất, nắm ưu thế hơn hẳn về kinh tế tài chính trên toàn thế giới.
- Sản lượng công nghiệp Mỹ luôn chiếm hơn một nửa sản lượng công nghiệp toàn cầu (Hơn 56% vào năm 1948).
- Sản lượng nông nghiệp bằng 2 lần tổng sản lượng của Anh, Pháp, CHLB Đức, Ý, Nhật cộng lại (1949).
- Mỹ nắm trong tay gần % dữ trữ vàng của thế giới (khoảng 24.6 tỷ đôla, năm 1949).
- Trên 50% tàu bè đi lại trên các biển.
- Trong nửa sau những năm 40 tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hằng năm là 6%.
- Nền kinh tế Mỹ trong những thập niên 50, 60 chiếm gần 40% tổng sản phẩm kinh tế thế giới.
- GDP năm 2000 là 9 765 tỉ USD, thu nhập đầu người là 34 600USD, tạo ra 25% tổng sản phẩm của toàn thế giới.
- Trong khoảng 2 thập niên đầu chiến tranh, Mỹ là trung tâm kinh tế, tài chính duy nhất của thế giới.
Sở dĩ Mĩ có sự phát triển đó là do:
- Lãnh thổ rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu khá thuận lợi.
- Mỹ có nguồn nhân công dồi dào, có trình độ kỹ thuật cao, năng động ,sáng tạo.
- Quân sự hóa nền kinh tế, thu lợi từ buôn bán vũ khí. Trong thế chiến II, Mỹ thu 114 đô la lợi nhuận nhờ buôn bán vũ khí.
- Áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và điều chỉnh hợp lí cơ cấu sản xuất.
- Trình độ tập trung tư bản và sản xuất ở Mỹ cao, các tập đoàn tư bản Mỹ có sức sản xuất và cạnh tranh có hiệu quả ở cả trong và ngoài nước.
- Chính sách điều tiết nền kinh tế của chính phủ có hiệu quả.
Nguyên nhân quan trọng nhất làm nền kinh tế Mỹ phát triển nhảy vọt sau chiến tranh thế giới thứ II là việc Mỹ đã khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần II và đã đạt được những thành tựu kỳ diệu trong việc sáng tạo ra những công cụ sản xuất mới (máy tính), nguồn năng lượng mới (nguyên tử, nhiệt hạch, măt trời), những vật liệu mới (chất polyme, nhũng vật liệu tổng hợp nhân tạo), cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, cách mạng trong giao thông và thông tin liên lạc, trong khoa học vũ trụ và sản xuất vũ khí hiện đại...
- Nhờ đó Mỹ đã:
Ÿ Điều chỉnh hợp lý cơ cấu sản xuất.
Ỹ Cải tiến kỹ thuật làm năng suất tăng, giá thành hạ.
Ỹ Chính nhờ những thành tựu cách mạng khoa học - kỹ thuật này mà nền kinh tế Mỹ phát triển nhanh chóng và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân Mỹ đã có nhiều thay đổi khác trước.
Câu 2:
Vào đầu những năm 80, khi Rigân lên nắm chính quyền ở Mĩ, thì quan hệ Xô - Mĩ, quan hệ Đông - Tây còn căng thẳng, thậm chí hai bên chạy đua vũ trang quyết liệt. Thế nhưng từ nửa sau những năm 80, đặc biệt khi Goocbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô thì quan hệ Xô - Mĩ thực sự từng bước chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Động thái này được thông qua các cuộc hội nghị cấp cao giữa những người đứng đầu hai quốc gia. Từ năm 1987, những cuộc gặp gỡ giữa Rigân - Goocbachốp, giữa Busơ (bố) -Goocbachốp đã dẫn tới hai bên giảm bớt căng thẳng, tranh chấp. Đặc biệt, trong các cuộc gặp gỡ này, nhiều văn kiện hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, buôn bán, văn hóa và khoa học - kỹ thuật được kí kết. Nhưng quan trọng nhất là vào năm 1987, hai nước đã kí kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở châu Ảu, gọi tắt là IMF, số tên lửa này chiếm khoảng 3% kho vũ khí hạt nhân của mỗi nước. Cũng từ năm 1987, hai nước thỏa thuận cùng giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cục diện chiến tranh lạnh, cùng hợp tác với nhau để giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột quốc tế.
Cuối cùng, tháng 12 - 1989, tại cuộc gặp gỡ không chính thức giữa Busơ và Goocbachốp trên bán đảo Manta (Địa Trung Hải), Mĩ và Liên Xô cùng tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh kéo dài hơn 40 năm qua. Quan hệ quốc tế bước vào thời kỳ mới - thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Việc tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh, đã đưa thế giới vào thời kỳ hòa dịu và đã dẫn tới những chuyển biến trong quan hệ quốc tế và cục diện chính trị thế giới.
Câu 4:
Trong giai đoạn đầu (1967 - 1975). ASEAN là một tổ chức non trẻ, sự hợp tác giữa các nước còn lỏng lẻo, chưa có vị trí trên trường quốc tế. Sự khởi sắc trong hoạt động của tổ chức ASEAN được đánh dấu từ hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Bali (Indonexia) tháng 2 năm 1976, với việc kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước Ba Li) -> Đáp án: A
Câu 7:
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được phát triển từ Hiệp ước Phòng thủ tập thể Brussels do Anh, Pháp và ba nước Benelux (gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) ký tháng 3 năm 1948. Tổ chức này ra đời một phần do tâm lý lo sợ chiến tranh của các nước, nhất là sau cuộc khủng hoảng Tiệp Khắc. Mục đích chính của NATO là ngăn chặn Liên Xô, bảo vệ an ninh và duy trì ổn định ở Tây Âu. Ngày 04/04/1949, Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký ở Washington và chính thức có hiệu lực vào tháng 8/1949. Ra đời không lâu sau khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu, có thể nói việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là một trong những động thái của các nước phương Tây phản ứng trước môi trường quốc tế thay đổi. NATO đóng vai trò phòng thủ tập thể cho các nước thành viên, kiềm chế Liên Xô và đảm bảo cho cam kết của Mỹ về bảo vệ Tây Âu. Như vậy, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã trở thành một bộ phận quan trọng của trật tự an ninh mới ở Châu Âu.
Hiệp ước Vácsava được ký tháng 4/1955 tại Thủ đô Vácsava của Ba Lan với tên gọi chính thức Hiệp ước Tương trợ lẫn nhau của các nước Đông Âu. Hiệp ước đã tạo nên một đồng minh trong Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô với 7 nước Đông và Trung Âu nhằm đổi trọng với NATO. Hiệp ước tồn tại đến năm 1991 thì giải thể.
Câu 9:
Đáp án: c. Mĩ là nước khởi đầu cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây chính là nguyên nhân chính giúp kinh tế nước Mĩ phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Để 20 năm sau chiến tranh thế giới thứ 2 Mĩ trở thành trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới.
Câu 10:
Ngày 12/4/1961, vào lúc 6 giờ 7 phút (giờ Greenwich), con tàu vũ trụ được con người điều khiển lần đầu tiên đã được phóng lên vũ trụ. Yuri Alekseievich Gagarin (lOpHH AneKceeBHH rarapHH, 1934-1968), nguyên là phi công láỉ máy bay tiêm kích đã được chính phủ Sô Viết (Nga) tin tưởng giao trách nhiệm điều khiển con tàu vũ trụ mang tên Phương Đông bay một vòng xung quanh Trái Đất. Toàn bộ chuyến bay kéo dài 1 giờ 48 phút.
Để làm được điều này, tàu Phương Đông đã phải đạt được vận tốc 17.500 mph (-7823 m/s) mới có thể thắng được trọng lực của Trái Đất. Đây là vận tốc chưa từng đạt được trong lịch sử của loài người tính tới lúc đó. Tàu vũ trụ Phương Đông (Yostok) lúc đó được thiết kế dạng hình cầu (spherical) và chỉ đủ chỗ cho duy nhất Gagarin. Tàu này cũng không được thiết kế để có thể hạ cánh khi vẫn có người ngồi trong đó nên sau một vòng Trái Đất, Gagarin đã phải nhảy ra khỏi tàu và sử dụng dù để tiếp đất ở độ cao 4 dặm (~6.4km). Tàu Vostok từ độ cao đó cũng được sử dụng dù để giảm tốc. Trên thực tế, Gagarin cũng không được lái con tàu vũ trụ có người đầu tiên này bởi mọi thứ đã được lập trình sẵn. Bạn có thể xem thêm hình vẽ ở đây để biết được rõ hơn về cấu tạo của tàu vũ trụ Phương Đông.
Khi thực hiện chuyến bay lịch sử đánh dấu một mốc quan trọng trong việc tìm hiểu và khám phá vũ trụ này, Yuri Gagarin mới chỉ có 27 tuổi. Và sự kiện này đã mở đầu cho kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.
Câu 14:
Đảng Lập hiến Đông Dương là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ. Cùng với Bùi Quang Chiêu là các ông Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền, Phan Văn Trường thành lập Đảng Lập hiến vào năm 1923 ở Sài Gòn.
Đảng Lập Hiến có lực lượng tham gia chủ yếu là người việt thuộc thành phần giai cấp tư sản dân tộc, đại địa chủ, tri thức tiểu tư sản, một số là binh lính phục vụ trong hàng ngũ quân đội thực dân Pháp. Đảng này hoạt động chủ yếu ở Nam Kỳ. Chủ trương của Lập hiến Đảng là đấu tranh ôn hòa, thỏa hiệp với thực dân Pháp vào đầu thập kỷ 20 của thế kỷ 20 nhằm giành quyền lợi về kinh tế cho người Việt, chủ trương dành độc lập dân tộc thông qua việc duy tân, thu nhập và phát triển văn hóa mới theo phương Tây.
Đảng Lập hiến hoạt động từ năm 1923 đến khoảng thập niên 1930 thì chấm dứt. Do sau này, nội bộ Đảng Lập hiến cũng bị phân hóa vì xung khắc giữa Nguyễn Phan Long và Bùi Quang Chiêu. Nguyễn Phan Long dần ngả hoạt động với giáo phái Cao Đài, làm giảm lực lượng của nhóm Lập hiến. Năm 1937 thì Nguyễn Yăn Thinh lập ra Đảng Dân chủ Đông Dương, thu hút một số không nhỏ giới chuyên môn người Việt khiến ảnh hưởng của Đảng Lập hiến càng suy giảm. Trong cuộc bầu cử năm 1939, cả ba ứng cử viên của Đảng Lập hiến đều thất cử, đánh dấu thời kỳ suy thoái và mất bóng trên chính trường
Câu 19.
Chiến tranh cục bộ là một chiến lược chiến tranh do Hoa Kỳ tiến hành trong giai đoạn 1965-1967 trong chiến tranh Việt Nam. Nội dung cơ bản của chiến lược là dùng ưu thế hỏa lực, công nghệ và quân số của lính viễn chinh Mỹ để đè bẹp quân Giải phóng miền Nam, đồng thời dùng không quân đánh phá miền Bắc nhằm bảo vệ chế độ Việt Nam cộng hòa, thiết lập ảnh hưởng lâu dài của Mỹ lên miền Nam Việt Nam.
Nếu như ở “chiến tranh đặc biệt” lực lượng chủ lực là quân Ngụy Sài Gòn thì ở “Chiến tranh cục bộ: Lực lượng chiến đấu chính là quân viễn chinh Mĩ. Và trong “Việt Nam hóa chiến tranh”: Chủ yếu là quân Ngụy, quân Mĩ rút dần vè nước.
Câu 21:
Đọc Sơ thảo luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra những lý luận cách mạng phù hợp với con đường cách mạng Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, Người đã xác định rõ đâu là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc và phải chĩa ngọn cờ cách mạng vào đúng kẻ thù. về kẻ thù của cách mạng Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt năm 1930 đó là: thực dân Pháp và bọn phong kiến. Đồng thời phân tích rõ mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc để lôi kéo, đoàn kết tập trung mọi lực lượng tiến hành cách mạng, nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi của giai cấp vô sản, nhân dân lao động.
Thứ hai, Sơ thảo luận cương của Lênin chỉ rõ cho Nguyễn Ái Quốc thấy động lực to lớn và lực lượng chính của cách mạng đó là giai cấp công nhân và nông dân. Từ ý chí tìm lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, từ thực tiễn hoạt động cách mạng, thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân trong các cuộc đấu tranh nhất là cuộc cách mạng tháng Mười Nga, lại được lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin soi đường, Nguyễn Ái Quốc đã xác định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân và nông dân: “công nông là gốc cách mạng, còn học trò, địa chủ nhỏ nhà buôn nhỏ...là bầu bạn cách mạng của công nông”(6). Đồng thời công
- nông cũng là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mà Sơ thảo luận cương của Lênin đã vạch ra đó là: Con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người. Đây cũng là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Sau khi đọc Sơ thảo luận cương của Lênin, Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
Thứ tư, Sơ thảo luận cương của Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa. Lênin viết: “...Đối với các quốc gia, dân tộc chậm tiến hơn...nhất thiết phải có sự giúp đỡ của các đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân tộc dân chủ tư sản của những nước ấy, công nhân của một nước đang thống trị một dân tộc chậm tiến về mặt thuộc địa hoặc về mặt tài chính phải có nhiệm vụ trước tiên ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng của dân tộc ấy.
Câu 22:
Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930), Tân Việt vừa mới chuyển thành cộng sản, không kịp cử đại diện đi dự đại hội gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, được sự đồng ý của Nguyễn Ái Quốc, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, Phạm Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 34:
Đảng đề ra chủ trương “tránh trường hợp một mình đối đầu với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc” là do hoàn cảnh lúc đó của nước ta bấy giờ đứng trước khó khăn là phải đối mặt với: Ngoại xâm và nội phản:
* Miền Bắc (từ vĩ tuyến 16 trở ra): 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào nước ta theo sau là các đảng phái tay sai nhưViệt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) hòng giành lại chính quyền.
* Miền Nam (từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam)
- Quân Anh kéo vào, dọn đường cho Pháp trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình, bọn phản động ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng.
- Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp, theo lệnh Anh chống cách
mạng.
- Quân đội Trung Hoa Dân quốc đến Hải Phòng, năm 1945
- Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
=> Như vây kẻ thù còn đông và manh.
Đồng thời trong nước đang gặp nhiều khó khăn. Đó là:
- Chính quyền cách mạng vừa thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang non yếu.
- Nạn đói cuối 1944 đầu 1945 chưa khắc phục được, nạn lụt lớn làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, hạn hán kéo dài.
-Cơ sở công nghiệp chưa phục hồi, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân nhiều khó khăn.
-Ngân sách Nhà nước trống rỗng, tiền mất giá của Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường, làm tài chính nước ta rối loạn.
=> Đất nước đứng trước tinh thế “Ngàn cân treo sợi tóc”
Câu 36:
Với Hiệp định Giơnevơ (1954): Tuy là một thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được Miền Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn còn tiếp tục để giải phóng miền NAm, thống nhất đất nước vì sau khi Pháp rút quân ở miền Nam liền có Mĩ thay thế.
Với Hiệp định Pari: Việc quân Mĩ phải rút khỏi nước ta, phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta làm cho chính quyền Sài Gòn bị suy yếu, so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi theo hướng có lợi cho ta. Do đó tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Câu 37:
Vì muốn cách ly thường dân khỏi lực lượng du kích, chính phủ Ngô Đình Diệm cho ra đời kế hoạch Ảp chiến lược. Mục đích chính là loại lực lượng du kích ra khỏi dân làng để dễ dàng tiêu diệt. Kế hoạch này đã gây khó khăn cho những người cộng sản miền Nam, nhiều cơ sở của họ bị quét sạch và có nguy cơ bị tiêu diệt. Kế hoạch được phái đoàn cố vấn Anh do R. G. K. Thompson cầm đầu đưa ra vào Tháng 11 năm 1961 và chính thức áp dụng vào Tháng Ba năm 1962 đầu tiên ở Bình Dương. Ảp được xây với hệ thống phòng thủ, thường có hai vòng rào. Vòng ngoài bằng dây kẽm gai, tre hoặc bụi gai. Vòng trong đắp đất, trên gán kẽm gai. Giữa vòng ngoài và vòng trong là hào sâu khoảng hơn một mét cắm chông nhọn. Mỗi ấp đều có một hoặc nhiều chòi canh có tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật.
Mục đích của phía Việt Nam Cộng hòa về Ảp chiến lược là để tách rời quân du kích của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ra khỏi nhân dân ở nông thôn hòng hạn chế đối phương xây dựng cơ sở hoạt động, ngăn chặn người dần tiếp tế cho du kích để họ dần bị cô lập. Ảp chiến lược còn có dụng ý để quân địa phương có công sự phòng ngự đợi cho đến khi quân đội có thể đến giải cứu.
Quan điểm của phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì Ảp chiến lược là nội dung cơ bản, là "xương sống" của chiến lược chiến tranh đặc biệt, là biện pháp chủ yếu để tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực, trong đó hành quân càn quét, đánh phá, triệt hạ làng mạc, dồn dân, chiếm đóng, làm dân bị kìm kẹp nhằm "tát nước bắt cá", cô lập lực lượng vũ trang cách mạng để họ không thể dựa vào dân, nhằm thực hiện ý đồ tiêu diệt lực lượng quân Giải phóng
HẾT

LIÊN QUAN
XEM THÊM